Đầu năm 2011. Hạm đội Biển Đen, lữ đoàn pháo binh – tên lửa số 11 (mật danh Anapa) nhận được tổ hợp tên lửa bảo vệ bờ biển cơ động thứ 3 "Bastion". Hai tổ hợp trước đã được biên chế vào lữ đoàn vào năm 2010. Lữ đoàn 11 được trang bị trong biên chế trước đây là pháo tự hành phòng thủ bờ biển SU-130mm A-222 và tổ hợp tên lửa chống tàu "Redoubt".
Đây là tổ hợp vũ khí rất mạnh, một trong những tổ hợp tên lửa bảo vệ bờ biển tốt nhất, có khả năng cơ động cao, sử dụng tên lửa chống tàu có tốc độ siêu âm 3M55 Yakhont (Onyx).
Tên lửa chống tàu Yakhont (Onyx) được thiết kế và chế tạo theo sơ đồ khí động học với những cách hình thang vuông gấp lại được và mở ra khi phóng, để ổn hướng và điều hướng, đồng thời các van điều hướng luồng phụt, tại phần đáy đạn và hệ thống tạo luồng hút tại chóp mũi đạn, giúp đạn tên lửa tự ổn định và xoay theo hướng phóng dự kiến.
Tên lửa có hệ thống dẫn đường tổ hợp (hệ thống dẫn đường quán tính và hệ thống tự dẫn radar ở giai đoạn cuối của quỹ đạo bay của tên lửa. Tên lửa dùng động cơ phản lực công xuất lớn, bay với tốc độ siêu âm (động cơ phản lực dòng khí thẳng với ống phóng tăng tốc sử dụng thuốc phóng dạng rắn. Động cơ có bộ phận nạp khí đồng trục ở đầu tên lửa và ống chụp đầu tên lửa hình nón.
Thông số kỹ thuật tên lửa Yakhont (Onyx)
Chiều dài: 8,0 m, đường kính: 0,70 m, sải cánh: 1,7 m, khối lượng: 3000 kg
Ống phóng container kín có chiều dài: 8,9 m, đường kính: 0,72 m, khối lượng với ống phóng container TNS: 3900 kg
Khối lượng đầu đạn: 200 kg
Tốc độ trên cao: 750 m/s (2,6 М)
Tốc độ trên mặt nước tầm thấp: 680 m/s (2 М)
Tầm bay của tên lửa:
– Khi tên lửa bay với tầm cao thay đổi theo quỹ đạo bay: ( Giai đoạn đường bay cuối- 40 km)- 300 km;
– Khi tên lửa bay thấp với tầm bay cao là: 15 m – 120 km;
Tầm bay cao của tên lửa 10-14000 m
Động cơ phản lực SPVRD, lực đẩy là 4000 kN, khối lượng dầu T-6, 200 kg, ông tăng tốc phản lực sử dụng thuốc phóng dạng rắn. Khối lượng động cơ phản lực 500 kg
Hệ thống điều khiển
Trong giai đoạn bay hành trình – Dẫn đường quán tính.
Trong giai đoạn cuối của quỹ đạo – dẫn đường bằng radar đơn xung, hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết.
Tầm phát hiện mục tiêu của radar: 50 - 70 km.
Góc tìm kiếm và phát hiện mục tiêu ± 45°
Thời gian sẵn sàng hoạt động của radar khi bật: 2 phút.
Khối lượng của radar — 85 kg
Điều kiện hoạt động của radar tự dẫn — biển động cấp 7
Tên lửa Yakhont có thể được lắp trên nhiều phương tiện mang khác nhau như hệ thống tên lửa chống tàu Bastion, tàu ngầm, máy bay chiến đấu, chiến hạm mặt nước.
Những đặc điểm kỹ chiến thuật của tên lửa Yakhont (Onyx):
– Tấn công mục tiêu ngoài đường chân trời
– Chế độ tự động hóa hoàn toàn ( bắn – quên)
– Có nhiều quỹ đạo bay khác nhau ( thấp; cao và thấp)
– Tốc độ bay siêu âm trên tất cả các tầm bay khác nhau
– Khó nhận biết bằng radar trên boong tàu do sử dụng công nghệ tàng hình (stealth)
– Có thể sử dụng trên mọi phương tiện mang: tàu nổi, tàu ngầm và các phương tiện phóng trên mặt đất.
Tên lửa chống tàu Yakhont (Onyx) được chế tạo như một tên lửa đa dụng, được lắp trên máy bay, tàu chiến nổi, tàu ngầm, đồng thời trên các bệ phóng trên mặt đất:
– Tổ hợp tên lửa bảo vệ bờ biển Bastion
– Tàu ngâm dự án 885 Ash
– Tàu phóng tên lửa cỡ nhỏ dự án 1234.7 Rolling
– Các tàu tuần biển dự án 22350 Đô đốc Gorskov, đã từng có kế hoạch đóng 20 chiếc tàu loại này. (10 tàu trong 10 năm).
Nguyên tắc hoạt động của tên lửa Yakhont
Sau khi tên lửa được phóng khỏi ống phóng, động cơ tăng tốc sử dụng nhiên liệu rắn khởi động, ống khởi động được đặt trong buồng đốt của động cơ tên lửa, trong vòng vài giây, ống tăng tốc sẽ tăng tốc tên lửa lên đến 2M. Sau khi cháy hết, ống tăng tốc được đẩy ra ngoài bằng luồng khí và bắt đầu hoạt động của động cơ hành trình chính. Động cơ đẩy tên lửa bay với tốc độ 2,5M theo quỹ đạo đường đạn đã được nạp trong máy tính trên tên lửa.
Sơ đồ hoạt động của tên lửa chống tàu Yakhont
Radar tự dẫn trên đầu đạn có thể khóa mục tiêu như tàu tuần dương trên khoảng cách đến 75 km. Sau khi phát hiện và khóa mục tiêu. Máy tính sẽ hạ độ cao của tên lửa xuống còn 5-10 m so với mặt nước biển, làm giảm đến tối thiểu khả năng đánh chặn của hệ thống phòng không trên tàu đối phương trong trường hợp địch phát hiện ra.
Chế độ hạ độ cao bay của tên lửa thấp hơn độ cao phát hiện của radar làm gian đoạn khả năng bám tên lửa của các loại vũ khí phòng không, tốc độ siêu âm và độ cao thấp trong giai đoạn bám và tự dẫn tấn công mục tiêu làm cho đối phương không thể chặn đánh được tên lửa.
Lần bật radar thứ nhất ở độ cao cho phép xác định mục tiêu, lựa chọn mục tiêu của từng tên lửa theo cụm tàu và loại trừ các mục tiêu giả. Đây là tính năng rất hiệu quả của Yakhont.
Lần thứ hai radar được bật lên để bắt mục tiêu trong giai đoạn cuối, dẫn đường và đưa tên lửa vào mục tiêu. Thời gian ngắn và tầm xa của radar cho phép sử dụng các radar đơn xung có độ chính xác không cao.
Tương tự như máy bay cảm tử của Nhật trong thế chiến thứ 2, vụ tấn công của tên lửa Yakhont với số lượng lớn đảm bảo khả năng tiêu diệt các tàu xuồng rất cao. Và do tốc độ cao > 2M. Không có khả năng tiêu diệt tên lửa ở tầm gần.
Một trong những đặc trưng của Yakhont là chương trình phần mềm nhân tạo chạy trên máy tính đầu đạn. Nó cho hiệu quả chiến đấu rất cao khi bắn loạt tên lửa. Trong trường hợp bị tấn công ồ ạt với số lượng lớn các tàu xuống, chương trình trên đầu đạn tự chọn và đánh giá độ quan trọng của mục tiêu, lựa chọn tọa độ và phương thức tấn công. Đồng thời chương trình cũng lựa chọn khả năng chống lại tác chiến điện tử và lựa chọn phương án trách góc bắn của hỏa lực phòng không đối phương để tấn công tàu.
Khi tiêu diệt mục tiêu trong đội hình, các tên lửa còn lại chuyển hướng sang các mục tiêu khác, loại trừ khả năng 2 tên lửa cùng tiêu diệt một mục tiêu. Tính năng chiến thuật này được đảm bảo bằng máy tính trên tên lửa có hình ảnh của các loại tàu xuống và các thông số khác, cho phép xác định loại cụm tàu và tàu (vận tải, tuần dương, tàu tuần tiễu, tàu sân bay, và tàu xuồng của lực lượng đổ bộ biển, từ đó tấn công mục tiêu quan trọng nhất).
Trong điều kiện phát triển sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu của Hải quân, các tổ hợp tên lửa này cho phép bảo vệ vững chắc vùng biển, bờ biển của quốc gia.
Đồng thời, cũng phải sử dụng các tổ hợp tên lửa có tầm bắn gần, dưới 120 km Bal-E, tên lửa chống tàu Club-M có tầm bắn đến 150 km. Phát triển các loại pháo tự hành bờ biển, tạo thành hệ thống phòng thủ lớp vùng bờ biển và hải đảo.