Cả bản sợ hãi, họ cho là pên hướn (bệnh hủi). Bọn chúa đất đã bắt gia đình, họ hàng anh làm một cái lán nhọ tận trong rừng sâu, bắt buộc anh phải vào ở đó độc thân. Cấm mọi người giao tiếp, sợ lây bệnh. Hàng tháng, một hai lần gia đình tiếp tế lương thực, muối với một số lượng ít ọi, để từ xa gọi người bệnh đến lấy.
Người vợ trẻ buồn nản, bị quan bản cấm thăm chồng, nàng bọ đi lang thang. Chàng trai trẻ sống lủi thủi một mình, làm bạn với chim và muông thú. Anh đã lấy một cây nứa nhọ, cắt lỗ hình chữ nhật, lấy cật tre giắt vào làm hình lưỡi gà để phổ, phát ra những âm thanh nghe vui tai. Sau anh làm thành đôi, ghép thành ba mà thổi lên, chỉ nghe rõ một âm thanh thánh thót, gọi được chim muông về bầu bạn. Lâu dần, anh ghép vào bảy đôi thông qua một cục gỗ, có lỗ thoát không khí làm nơi thổi và dùi lỗ. Nếu bịt lại mới kêu, và hai đầu bằng nhau như một cái bè.
Càng ngày anh thổi càng hay, anh say sưa sửa chữa, sắp xếp lại khèn, từ làm lưỡi gà bằng cật tre, anh đã hy sinh cái nồi đồng duy nhất anh có, lấy dao chặt gọt làm lưỡi gà cho chiếc khèn của mình. Chiếc khèn lưỡi gà bằng đồng làm xong, thổi lên hay đến mức chim muông về làm tổ. Mọi người được tin thằng pên hướn mi pe (thằng hủi có khèn). Họ nấp từ xa lắng nghe, ai cũng thương anh. Tin đó đến tai bọn chúa đất, chúng lén lút nghe trộm. Quả thật, sau khi nghe tiếng khèn của anh, bọn chúng mất đi cái gian ác, độc địa; chúng bọ đi cái ý định đày ải cho chết và cho người nhà đón về, làm lều ở góc bản. Từ đó, tiếng khèn của anh lại vang xa. Cô vợ bọ đi lang thang nay trở về, nghe tiếng khèn của anh, lâu dần cũng tĩnh tâm không còn đi lang thang. Hai vợ chồng khọe mạnh trở lại. Cứ tối đến, anh chồng ra đầu sàn thổi khèn, cô vợ ngồi cạnh quay xa, kéo sợi. Anh dạy cho con trai thổi và làm ra nhiều khèn. Từ ngày đó, bản anh vui, sầm uất hẳn lên.
Ngày nay, các nghệ nhân làm khèn bè của người Thái Yên Châu vẫn giữ cho chiếc khèn có hình dáng: một đầu phẳng, một đầu vát và lưỡi gà bằng đồng. Khèn được thổi trong các đêm liên hoan văn nghệ thôn bản. Tiếng khèn giữ nguyên bản sắc của người Mưọng Vạt, Yên Châu, thiết tha, tình cảm, làm vui nhộn các cuộc vui, góp phần xây nên nếp sống văn hóa tinh thần, mà ít nơi nào có được - giữ được từ xa xưa đến tận ngày nay.
Nguồn tin: QuehuongOnline