|
Tàu hải quân Mỹ |
Về mặt quân sự, Mỹ cần tiến hành những bước đi sau đây:
Tiến sĩ Patrick M. Cronin là Cố vấn và Giám đốc Cấp cao của Chương trình An ninh Châu Á Thái Bình Dương, Trung tâm An ninh Mỹ mới (CNAS). Alexander Sullivan là sinh viên thực tập của Joseph S. Nye, Jr. tại Chương trình An ninh Châu Á Thái Bình Dương, CNAS. Bài viết được đăng lần đầu tiên trên trang “The Diplomat”.
- Tăng cường năng lực cho các đồng minh và đối tác để họ có khả năng phòng vệ tối thiểu chống lại hành động xâm chiếm. Mỹ công nhận quyền của Trung Quốc trong việc bảo vệ lãnh thổ, nhưng Trung Quốc cũng nên công nhận quyền của các nước láng giềng trong việc xây dựng cái mà nước này gọi là ‘lực lượng chống can thiệp’. Mỹ nên giúp nâng cao năng lực phòng vệ ở mức thấp của những nước này, bao gồm cả vấn đề an ninh trên biển hiện ở dưới cấp độ quân sự. Mỹ có thể đem lại lợi thế đặc biệt trong lĩnh vực cảnh báo trên biển (MDA) hoặc thông tin tình báo, giám sát và trinh sát (ISR).
- Hải quân và Cảnh sát biển Mỹ cần đào tạo các đối tác quân sự và đơn vị trên biển nhằm giảm thiểu nguy cơ tai nạn hoặc tính toán sai lầm. Điều thực sự quan trọng cần nhấn mạnh là hoạt động an toàn của các tàu ngầm, đặc biệt khi xét đến việc thiếu kinh nghiệm của các quốc gia như Việt Nam trong hoạt động dưới mặt biển.
- Tổ chức và thúc đẩy các biện pháp xây dựng lòng tin giữa lực lượng quân đội của các bên liên quan. Kết hợp đào tạo, đặc biệt trong các hoạt động với cường độ thấp nhằm giải quyết những vấn đề về lợi ích chung như hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thiên tai (HA/ DR) và các hoạt động chống cướp biển.
- Thu hút Trung Quốc tham gia vào các nỗ lực quân sự của khu vực. Việc Trung Quốc chấp nhận đề nghị của Mỹ tham gia cuộc tập trận RIMPAC 2014 là một tín hiệu đáng khích lệ. Điều đó tạo đà thuận lợi cho việc hình thành các mối quan hệ riêng có thể giúp giảm thiểu sự nghi ngờ mang tính nguyên tắc giữa lực lượng quân đội và tạo ra một “van xả” quan trọng khi tình hình trở nên căng thẳng.
Ngoại giao quân sự phải được hỗ trợ bởi các cam kết ngoại giao nhằm thúc đẩy sự minh bạch và giải quyết xung đột dựa trên cơ sở luật pháp phù hợp với các giá trị Mỹ. Những ưu tiên về ngoại giao và chính trị bao gồm:
- Củng cố nỗ lực hướng tới phê chuẩn UNCLOS. Sự phản đối của những người bảo thủ trong việc Thượng viện phê chuẩn UNCLOS tập trung vào vấn đề cho phép (và tài trợ) một bộ máy quốc tế vô danh có thể làm ảnh hưởng chủ quyền của nước Mỹ. Trong khi những mối quan ngại đó có thể được đảm bảo, nước Mỹ không thể hành động một cách đáng tin cậy với vai trò người bảo vệ tự do lưu thông trên biển nếu không tham gia vào hệ thống quốc tế đang gìn giữ những nguyên tắc này như tất cả quốc gia khác trong khu vực đã làm. UNCLOS không thể giải quyết tranh chấp Biển Đông, nhưng đang thúc đẩy các luật lệ trên biển đã được thừa nhận trên bình diện quốc tếcó thể giúp ngăn chặn tranh chấp. Mặc dù Mỹ luôn tuân thủ các điều khoản của UNCLOS, hành động biểu trưng này vẫn có ý nghĩa rất quan trọng.
- Tiếp tục ủng hộ các nỗ lực của Philippines trong việc đưa tranh chấp của nước này ra tòa trọng tài, một tiền lệ quan trọng của khu vực. Ngoại trưởng Kerry đã bày tỏ sự ủng hộ hoàn toàn của Mỹ đối với nỗ lực hướng tới một giải pháp hòa bình. Tuy nhiên, Mỹ phải nhận thấy rằng sự hỗ trợ của nước này không phải là kiểm soát kết quả (xét cho cùng, Mỹ không phải là một bên yêu sách), mà là hỗ trợ một quá trình giúp ngăn chặn hành động ép buộc và xung đột. Mặc dù Việt Nam với kinh nghiệm trong việc đối phó Trung Quốc gợi ý về phương thức ngoại giao thầm lặng với Bắc Kinh nhưng Việt Nam và các nước ASEAN có lợi ích cơ bản trong việc ủng hộ hệ thống luật pháp quốc tế và sự đoàn kết của ASEAN.
- Tăng cường vai trò lãnh đạo trung tâm của ASEAN trong việc quyết định số phận Biển Đông, và thúc đẩy việc hướng tới một Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông. Một phần quan trọng trong chiến lược tái cân bằng Châu Á của Mỹ đó là tham gia vào Hội nghị thượng đỉnh Đông Á và các diễn đàn khu vực khác do ASEAN chủ trì. Mỹ sẽ tiếp tục góp mặt ở những diễn đàn như vậy, đồng thời tăng cường can dự song phương với các quốc gia thành viên nhằm nâng cao sự gắn kết của ASEAN trong việc hợp tác hướng tới một Bộ Quy tắc ứng xử ràng buộc với Trung Quốc. Trong thời gian tới đây, Mỹ cần tiếp tục thắt chặt quan hệ với nước chủ tịch năm 2013 của ASEAN, Brunei Darussalam, đặc biệt là đánh giá về các đề nghị gần đây Bắc Kinh đưa ra cho vương quốc hồi giáo này. Sẽ là quá sức chịu đựng của ASEAN nếu cả khối lại phải chứng kiến sự cố đã từng xảy ra ở Phnom Penh, Bắc Kinh gây sức ép lên nước chủ tịch và gián tiếp phá hỏng những nỗ lực của ASEAN trong việc giải quyết vấn đề Biển Đông. Một tín hiệu đáng khích lệ là Brunei đã tuyên bố rõ rằng mỗi thành viên ASEAN có quyền thảo luận về vấn đề an ninh biển tại những diễn đàn sắp tới.
- Tăng cường mối quan hệ đối tác toàn diện với Indonesia nói riêng và phát huy vai trò trung gian khu vực của nước này. Một nước Indonesia dân chủ có tiếng nói quan trọng trong ASEAN và khu vực nói chung, đã trở thành đối tác toàn diện của Mỹ từ năm 2008. Không phải là bên tranh chấp ở Biển Đông, Indonesia có thể đóng vai trò bên trung gian đáng tin cậy, như nước này từng làm sau thất bại ở Phnom Penh.
Cuối cùng, bất kỳ chiến lược khu vực nào cũng đi kèm những cam kết về kinh tế, phản ánh tầm quan trọng của tăng trưởng đối với các quốc gia Đông Á và thúc đẩy sự thịnh vượng. Các sáng kiến quan trọng về kinh tế cần thực hiện bao gồm:
- Hoàn tất quá trình đàm phán Đối tác Xuyên Thái Bình Dương trong năm nay. Với sự hỗ trợ của chính phủ Abe tại Nhật Bản, TPP có thể đạt được những tiến bộ thực sự trong năm tới hoặc khoảng như vậy. Kết thúc những đàm phán ban đầu về TPP sẽ chứng minh quyết tâm và cam kết của Mỹ trong việc thúc đẩy sự thịnh vượng khu vực thông qua hoạt động thương mại mở rộng, dựa trên cơ sở luật lệ, lợi ích chung quan trọng của khu vực. Sau đó, điều này cũng giúp hình thành mối liên kết nhiều hơn giữa Mỹ và đa số các bên yêu sách ở Biển Đông, xóa bỏ áp lực về vấn đề quân sự.
- Cân bằng sự chênh lệch phát triển trong nội bộ ASEAN. Mỹ nên sử dụng các sáng kiến về kinh tế như chương trình Thúc đẩy Hợp tác Kinh tế Mỹ-ASEAN (E3) đưa ra mùa thu năm ngoái, cũng như Sáng kiến Hạ lưu sông Mekong, để nâng cao năng lực kinh tế tại các nước như Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam. Đưa những nước này tới gần hơn tiêu chuẩn được thiết lập bởi các nền kinh tế phát triển trong ASEAN như Singapore và Indonesia sẽ giúp ASEAN đi đúng hướng trong việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015. Đạt được mục tiêu đó sẽ cho phép ASEAN duy trì tiếng nói tương đối gắn kết về các vấn đề khu vực cũng như tránh được những rạn nứt.
Khi Châu Á đảm đương vai trò động lực tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu, cùng việc thế giới phải đối mặt với những xung đột bất ổn đang gia tăng, không nơi nào tiềm ẩn nguy cơ nhiều như Biển Đông trong 10 năm tới. Với vai trò cường quốc lãnh đạo ở Châu Á-Thái Bình Dương, Mỹ phải đưa ra những lựa chọn khó khăn, cần phải thúc đẩy các nỗ lực chung cần thiết để duy trì hòa bình ở Biển Đông trong năm 2013 và những năm tiếp theo, đồng thời thiết lập các thể chế bền vững nhằm giải quyết các tranh chấp trong tương lai.
Người dịch: Tiệp Anh
Hiệu đính: Minh Ngọc
Nguồn: Nghiên cứu Biển Đông
Các tiêu đề do Infonet đặt.