Việt Nam tụt hậu 50 năm so với Thái Lan về công bố khoa học

Thứ sáu - 11/01/2013 09:21 1.038 0

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa
Dân số đông, nhiều tiến sĩ nhưng số ấn phẩm khoa học Việt Nam công cố trên thế giới còn rất thấp so với các nước khu vực. Việt Nam phải hơn nửa thế kọ· nữa để đuổi kịp năng suất hiện tại của Thái Lan.

 



Tiến sĩ Bùi Du Dương. Ảnh do nhân vật cung cấp
 
Tiến sĩ Bùi Du Dương, học giả ở trường đại học Quốc gia Singapore phân tích về thực trạng khoa học Việt Nam so với các nước khu vực và bài học từ các nước đông Á với sự phát triển vượt bậc về công bố quốc tế trong những năm qua.
 
Cùng với xu thế hội nhập, số lượng và chất lượng ấn phẩm khoa học quốc tế trở thành thước đo quan trọng, chỉ số khách quan phản ánh sự phát triển khoa học công nghệ cũng như hiệu suất khoa học của mỗi quốc gia. Với bản thân nhà khoa học, các công bố quốc tế không chỉ mang lại lợi ích cho cá nhân như cung cấp các chứng từ ghi nhận thành quả nghiên cứu, tạo dựng cơ hội hợp tác chuyên môn, thúc đẩy hội nhập quốc tế mà còn là nghĩa vụ cần chia sẻ, đóng góp vào tri thức nhân loại, nâng cao sự hiện diện của khoa học nước nhà. Công bố khoa học quốc tế thưọng được hiểu là các bài báo được công bố trên các tạp chí khoa học, sách và các phát minh sáng chế được quốc tế công nhận.

Khoa học Việt Nam đang ở đâu?
 
Có nhiều phân tích trong nước và quốc tế cho thấy số lượng ấn phẩm khoa học Việt Nam còn rất khiêm tốn, khiến cho những ai quan tâm đến cảm thấy lo lắng. Thực trạng thấp kém không chỉ so với các nước tiên tiến trên thế giới có nền tảng khoa học phát triển lâu năm mà ngay cả khi so với các nước trong khu vực đông Nam Á.
 
Theo thống kê Viện thông tin khoa học (ISI), trong 15 năm qua (1996-2011), Việt Nam mới có 13.172 ấn phẩm khoa học công bố trên các tập san quốc tế có bình duyệt, bằng khoảng 1/5 của Thái Lan (69.637), 1/6 của Malaysia (75.530) và 1/10 của Singapore (126.881). Trong khi đó, dân số Việt Nam gấp 17 lần Singapore, 3 lần Malaysia và gần gấp rưỡi Thái lan.
 
Việt Nam hiện nay có khoảng 9.000 giáo sư và phó giáo sư, 24.000 tiến sĩ và hơn 100.000 thạc sĩ mà số ấn phẩm khoa học của cả nước trong vòng 15 năm qua chưa bằng 1/5 số công bố của trường đH Tokyo (69.806 ấn phẩm) và một nửa của trường đH Quốc gia Singapore (28.070 ấn phẩm).
 
đồ thị dưới đây của giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, đại học New South Wales, Êc mô tả số lượng và năng suất công bố khoa học của Việt Nam so với các nước trong vùng cho thấy với tốc độ hiện tại, chúng ta cần đến hơn nửa thế kọ· nữa để đuổi kịp năng suất hiện tại của Thái Lan, Malaysia chứ chưa nói gì đến Singapore hay các nước tiên tiến khác trên thế giới.

 
Sự hiện diện của khoa họcViệt Nam trên trường quốc tế còn khiêm tốn.
 
Không chỉ khiêm tốn về số lượng, chỉ số ảnh hưởng của các công trình nghiên cứu khoa học của Việt Nam cũng thấp nhất so với những nước trong khu vực vừa được đề cập. Thứ hạng khiêm tốn này cũng nhất quán với số bằng sáng chế được đăng ký ở Mỹ và chỉ số sáng tạo do Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới WIPO xếp hạng.
 
Thật ra, nước ta có nhiều công trình nghiên cứu xứng đáng chia sẻ với cộng đồng khoa học thế giới nhưng rất tiếc, cho đến nay các công trình đó vẫn loanh quanh trong các báo cáo nghiệm thu, đóng gói không chia sẻ, hoặc công bố trên những tạp chí trong nước chưa được quốc tế công nhận và hệ quả là làm thiệt thòi cho khoa học nước nhà.
 
Nhiều phân tích nêu ra những nguyên nhân chủ yếu cho tình trạng trên như phân phối ngân sách cho nghiên cứu chưa thọa đáng, rào cản về ngôn ngữ tiếng Anh, nhận thức chưa đầy đủ về tầm quan trọng của công bố quốc tế, thiếu kinh nghiệm và chưa có thói quen (văn hóa) công bố, thiếu chính sách đãi ngộ, khuyến khích nhà khoa học công bố quốc tế, rất ít những tập san khoa học trong nước bằng tiếng Anh, chưa xác lập những chuẩn mực đánh giá hiệu quả khoa học phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế ở đó công bố quốc tế được sử dụng làm thước đo khách quan. Tuy nhiên, đến nay gần như vẫn chưa có giải pháp nào đáng kể để cải thiện tình hình.
Bài học từ các nước đông Á
 
Bản đồ thế giới về ấn phẩm khoa học quốc tế đang thay đổi nhanh chóng trong vài thập kọ· gần đây với sự hiện diện của các "cưọng quốc mới" càng ngày càng gia tăng, đặc biệt là các nước và vùng lãnh thổ trong khu vực đông Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, đài Loan.
 
Số liệu thống kê mới nhất của SCImago tiến hành xếp hạng cho 147 nước và vùng lãnh thổ có công bố khoa học cho thấy Trung Quốc đã vươn lên hàng thứ hai trên thế giới về số ấn phẩm khoa học trên các tập san quốc tế chỉ sau Mỹ, vượt qua rất nhiều nước có lịch sử khoa học phát triển lâu năm như đức, Nhật, Anh, Pháp, Canada.
 
Theo phân tích từ số liệu ISI, trong vòng 15 năm gần đây, số lượng ấn phẩm khoa học mà các nhà khoa học Trung Quốc công bố hàng năm tăng gần 14 lần, từ 27.549 (hạng 9/147) năm 1996 đến 373.756 bài (hạng 2/147) năm 2011. Viện Hàn lâm Hoàng gia Anh (Royal Society) dự báo trong vòng hai năm tới số công bố khoa học của Trung Quốc có thể vượt qua Mỹ.
 
Các nước và vùng lãnh thổ ở đông Á khác như Hàn Quốc, đài Loan cũng có bước tiến rất ấn tượng. Nếu năm 1996 chỉ có Nhật Bản và Trung Quốc lọt vào top 15 của thế giới về số ấn phẩm khoa học thì năm 2011 đã có cả Hàn Quốc và đài Loan lọt vào danh sách này.
 
Bằng cách nào mà họ có những bước tiến ngoạn mục như thế?
 
đầu tư thọa đáng: Các nước và lãnh thổ trên đều coi giáo dục, khoa học công nghệ là bộ phận không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế, hiện đại hóa quốc gia họ. Ví dụ, từ những năm 90, Trung Quốc đầu tư khoản tiền khổng lồ (so với GDP của Trung Quốc vào thời điểm đó) hàng chục tỉ USD cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học, và nghiên cứu khoa học với các chương trình trọng điểm quốc gia như dự án 211 (1995), dự án 985 (1998), dự án 111 (2005).
 
Ngoài Trung Quốc, các quốc gia khác cũng nỗ lực đầu tư khoản khổng lồ không kém nhằm cải thiện số lượng và chất lượng công bố khoa học quốc tế mà điển hình là chương trình trọng điểm quốc gia "Brain Korea 21 (BK21)", Hàn Quốc hay chương trình "Xây dựng trường đại học và trung tâm nghiên cứu đẳng cấp quốc tế" của đài Loan.
 
Quốc tế hóa nhân sự khoa học: Các nước hiểu rõ con người là nhân tố quyết định cho thành công. Một mặt họ đầu tư tài chính để lôi cuốn được những giáo sư quốc tế đến công tác hoặc hợp tác với khoa học trong nước, một mặt họ có chủ trương thu hút những trí thức trong nước đã được đào tạo từ các nước phương Tây về nước nghiên cứu và giảng dạy.
 
Hàn Quốc xây dựng các cơ sở hợp tác chiến lược với các đại học nước ngoài (đặc biệt là Mỹ) và thuê các nhà khoa học, quản lý hàng đầu thế giới đến làm việc. Năm 2008, Hàn Quốc đưa ra "chương trình các đại học đẳng cấp thế giới" nhằm "nhập khẩu" các giáo sư nước ngoài đến giảng dạy và nghiên cứu, giúp sức "để chuyển đổi các trường đại học Hàn Quốc thành những viện nghiên cứu đẳng cấp thế giới".
 
Tính đến năm 2009, Hàn Quốc đã thu hút được hàng trăm giáo sư nước ngoài hàng đầu đến làm việc ở Hàn Quốc, trong đó có 9 nhà khoa học đã từng đạt giải Nobel. đồng thời, Hàn Quốc khuyến khích gửi các nhà khoa học và sinh viên trong nước sang học tập ở nước phương Tây. Theo báo cáo năm 2008 của Viện giáo dục Fulbright (Hoa kỳ), trung bình cứ 7 sinh viên quốc tế ở Mỹ thì lại có 1 sinh viên Hàn Quốc.
 
Không chỉ đầu tư thu hút giảng viên và nhà nghiên cứu, các nước cũng nỗ lực thu hút sinh viên nước ngoài, đặc biệt là sinh viên sau đại học thông qua nhiều chương trình trao đổi sinh viên, liên kết đào tạo, chương trình hợp tác nghiên cứu, cung cấp học bổng.
 
Quốc tế hóa tiêu chuẩn đánh giá khoa học: ọž các nước đông Á, chức danh khoa bảng như giáo sư, phó giáo sư, giảng viên đều được đề bạt và đánh giá dựa vào số lượng công trình khoa học quốc tế công nhận thay vì các tiêu chí khác như thâm niên công tác, nền tảng gia đình hay mối quan hệ cá nhân. Hơn nữa, các cơ quan quản lý và nhà tài trợ đều hướng đến việc sử dụng công bố khoa học quốc tế là một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá xem xét việc cấp tài trợ hay nghiệm thu các đề tài nghiên cứu.
 
Các nước chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học, đặc biệt là năng lực sáng tạo và đổi mới của nghiên cứu sinh tiến sĩ. Nghiên cứu sinh tiến sĩ thưọng được yêu cầu có bài đăng trên tạp chí quốc tế trước khi có thể bảo vệ luận án. Các học viên cao học cũng khuyến khích công bố trên các tạp chí và các hội nghị khoa học quốc tế trước khi bảo vệ luận văn.
 
Hàng năm, các nước tiến hành tiến hành xếp hạng các trường đH theo tiêu chuẩn quốc tế như THE, ARWU ở đó số lượng công bố khoa học quốc tế là một trong những tiêu chí quan trọng của bảng xếp hạng.
 
Quốc tế hoá tập san khoa học: Các nước chú trọng xây dựng ngày càng nhiều các tập san khoa học trong nước bằng tiếng Anh với hệ thống bình duyệt theo tiêu chuẩn quốc tế mà vào hệ thống ISI công nhận. Các bài báo khi đăng ở các tạp chí được ISI công nhận sẽ được tính trong hệ thống khi xếp hạng quốc tế. ọž đây, ta chưa nói đến vấn đề chất lượng mà chỉ bàn đến vấn đề thay đổi ngôn ngữ xuất bản và quy trình bình duyệt của các tập san sao cho phù hợp với chuẩn của các tập san quốc tế.
 
Cải thiện cơ cấu tổ chức: Không chỉ đầu tư mạnh về tài chính, với các nước có cơ cấu tổ chức khoa học chưa phù hợp với xu hướng thế giới như Trung Quốc đã tiến hành những cải tổ quan trọng. Họ thực hiện tái cấu trúc các trường đại học, xây dựng trường đại học tổng hợp, thiên hướng nghiên cứu thay vì các mô hình trường đại học chuyên ngành chủ yếu giảng dạy của Xô Viết cũ.
 
Nhà nước Trung ương cũng chủ trương xây dựng các phòng nghiên cứu trọng điểm quốc gia và đặt tại các trường đại học theo mô hình các trường đại học nghiên cứu ở Hoa Kỳ thay vì duy trì các viện nghiên cứu độc lập nằm ngoài trường đại học mà Trung Quốc áp dụng trong những năm 50.
 
Các nước khuyến khích tăng dần tỉ lệ của học viên sau đại học so với sinh viên đại học ở các cơ sở đào tạo, từ đó cho phép xây dựng những nhóm nghiên cứu chuyên ngành với thành viên đông đảo là các sinh viên thạc sĩ và tiến sĩ làm việc ở các phòng nghiên cứu.
 
Chính sách khen thưởng thọa đáng: Các nước đều có chính sách đãi ngộ, thưởng cũng như hình thức khuyến khích tài chính cho các nhà khoa học có công trình công bố trên các tập san quốc tế uy tín cao. Ví dụ, các viện nghiên cứu và đại học ở Trung Quốc có chính sách thưởng tiền đáng kể (lên tới 32.000 USD ở trường đại học Y Quảng đông cho công bố đăng trên Nature hay Science) cho các nhà khoa học nếu họ công bố công trình trên các tập san quốc tế uy tín có chỉ số ảnh hưởng cao.
 
Các quốc gia đông Á đã thành công, không có lý do gì chúng ta không áp dụng những biện pháp trên để nâng cao sự hiện diện của khoa học Việt Nam trên trường quốc tế.
Theo Dương Bùi (VNExpress)

Nguồn tin: NLĐ Online

 Tags: n/a
yk
nh
kb
hd
cds
cl
cuc
ck
a9
a8
a7
a6
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập18
  • Hôm nay8,052
  • Tháng hiện tại66,598
  • Tổng lượt truy cập42,040,684
EMC
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây