Với thông tin đã công bố, đến 31/12/2011, tổng tài sản của VietinBank đạt 460.421 tọ· đồng, tăng 25,4% so với năm 2010; tọ· lệ nợ xấu 0,74%; tăng trưởng dư nợ cho vay và đầu tư 24,8%; tổng nguồn vốn huy động tăng 24,4%; lợi nhuận trước thuế đạt 8.105 tọ· đồng, tăng 76% so với năm 2010 và đạt 158,9% kế hoạch; tọ· suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) đạt 25,4%, tọ· suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) đạt 1,96%.đây là con số ấn tượng về lợi nhuận của 01 ngân hàng trong hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay!
|
Ảnh minh họa |
8.105 tọ· đồng chưa phải là con số cuối cùng. Các công ty con của VietinBank dự kiến đều có lãi trong năm 2011 và kết quả hợp nhất sẽ cao hơn nữa. Là doanh nghiệp, lợi nhuận cao là bình thưọng, là hiệu quả kinh doanh, là lợi ích của các cổ đông. Song, lợi nhuận đến từ đâu cũng là điểm cần được quan tâm và vẫn đang là "ẩn số".
VietinBank chưa công bố cụ thể và chi tiết các nguồn thu, nhưng bản tin phân tích mới đây của Công ty Chứng khoán Tp.HCM (HSC) đưa ra những dữ liệu tham khảo đáng chú ý.
Cụ thể, theo HSC, trong năm 2011, thu nhập lãi thuần của VietinBank tăng trưởng mạnh, tăng trưởng 70% so với cùng kỳ năm ngoái, đóng góp tới 89% vào tổng thu nhập hoạt động; trong khi thu nhập từ dịch vụ chỉ chiếm 5%; tiền thu hồi từ các khoản nợ xấu đã xử lý chiếm 5%.
Thu nhập lãi thuần VietinBank đạt cao dựa trên tăng trưởng tín dụng tăng trưởng 24,5% so với cùng kỳ năm ngoái và tọ· lệ lãi biên (NIM) tăng mạnh từ mức 4,25% của năm 2010 lên 5,4% trong năm 2011.
Với phân tích trên, bước đầu có thể định hình cơ sở để VietinBank có lãi lớn trong năm 2011. Một điểm nổi bật là họ có một tọ· lệ lãi biên rất cao, cao hơn hẳn mức bình quân ngành những năm gần đây.
Năm 2011, Ngân hàng Nhà nước đặt giới hạn chung tăng trưởng tín dụng dưới 20% cho các ngân hàng. Điều này ảnh hưởng lớn đến khả năng tạo lợi nhuận. Tuy nhiên, theo thông tin và thực tế từ một số thành viên, giới hạn dưới 20% đó đã bị xóa bọ bởi có những trường hợp được phép tăng trên 20%, thậm chí tới 27%...
Và như những phân tích trước đây, khi tăng trưởng tín dụng bị giới hạn ở mức thấp, lãi suất cho vay sẽ bị áp ở mức cao hoặc ngân hàng sẽ giữ một tọ· lệ lãi biên cao để bù cho lợi nhuận. Tọ· lệ lãi biên của VietinBank là một điển hình.
Nếu theo dữ liệu tính toán trên của HSC, ngay trong năm 2010, khi mà chênh lệch giữa lãi suất cho vay với lãi suất huy động bình quân của hệ thống đã giảm về sát 2,5%/năm (theo lời lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước vào cuối năm 2010), thì của VietinBank vẫn ngất ngưởng tới 4,25%. Năm nay, tọ· lệ này tiếp tục tăng cao và lên tới 5,4% như tính toán của HSC.
5,4% cũng là cao hơn hẳn so với bình quân hệ thống những năm gần đây, ngay cả những năm 2006 - 2008 có tọ· lệ cao (bình quân từ 4,45% - 4,63%).
5,4% cũng là cao hơn hẳn so với tọ· lệ ước tính của một số ngân hàng lớn khác. Như tại Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank), tọ· lệ lãi biên năm 2011 cũng tăng nhưng dự tính chỉ ở khoảng 4,35%. Hay tại hiện tượng lợi nhuận năm 2011 là Ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank), tọ· lệ lãi biên dự tính còn thấp hơn, chỉ khoảng trên dưới 4%, thậm chí bình quân 6 tháng đầu năm 2011 chỉ khoảng 3,5%.
Nhưng dù có bất ngọ nào trong những kết quả tiếp tục công bố sắp tới thì gần như chắc chắn Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương Việt Nam (VietinBank) là đầu tàu lợi nhuận của ngành ngân hàng năm 2011, về con số tuyệt đối; tọ· suất lợi nhuận cũng thuộc nhóm dẫn đầu.
đặt trong sự quan tâm của dư luận hiện nay, giả sử VietinBank có lợi nhuận cao như vậy, nhưng giảm bớt sự lệ thuộc ở thu nhập lãi thuần và nâng cao hơn nữa tọ· trọng thu từ dịch vụ thì sẽ tạo tính "thuyết phục" cao hơn. Bởi phía sau những tọ· lệ lãi biên cao như vậy là áp lực và khó khăn của doanh nghiệp vay vốn.
Tầm nhìn.net cũng đã có nhiều bài viết và phân tích của các chuyên gia kinh tế từ việc mấu chổt gây bất ổn nền kinh tế vĩ mô là đích thực từ hệ thống ngân hàng vì .
1-Từ 97 đến 98 % nguồn vốn kinh doanh của hệ doanh nghiệp Việt Nam là đi vay chủ yếu là nguồn vay từ ngân hàng.
2- Lãi suất cho vay của ngành ngân hàng Việt Nam cao chưa từng thấy trên thế giới ? Vì sao ?
3- Tọ· lệ lãi biên cao cũng không thể tưởng tượng nổi và vượt quá giới hạn quy định từ 2,5%/năm lên đến 5,4% Năm như phân tích trên đây quả là một con số "khủng " về biên độ lãi của ngành ngân hàng duy nhất có ở Việt Nam.
4- Gần đây đã có những phân tích và đánh giá là không thể hạ lãi suất cho vay xuống ngay được vì tình hình thanh khoản ở hệ thống ngân hàng và nợ xấu tăng cao, .... Nhưng vấn đề cốt lõi và có thể làm được là các ngân hàng cần nhận thấy trách nhiệm chính của mình là phải giảm lãi cho vay xuống vì không thể một doanh nghiệp nào sống được nếu lãi suất vay cao như vậy ? Và các ngân hàng cần giảm chi phí để giảm lãi biên xuống mức thấp nhất có thể là 2 đến 2,5% năm thôi . Nhưng tại sao các ngân hàng không thực hiện điều đó? Vì sao? Vì nhóm lợi ích ? Hay vì muốn gây bất ổn thêm cho các doanh nghiệp và theo đó là bất ổn nền kinh tế
Muốn ổn định và phát triển nền kinh tế theo hướng bền vững thì phải có một thể chế pháp lý phù hợp và nghiêm, công khai cùng thực hiện đối với tất cả các ngành nghề kinh doanh.
Tránh sự độc quyền của bất cứ ngành nghề nào và đặc biệt là ngành tài chính ngân hàng. Nếu sự vô lý ngân hàng thì lãi lớn trong khi các doanh nghiệp thì thua lỗ và chết yểu thì vô hình dung vì sự "lãi lớn "ấy sẽ gây khó khăn và bất ổn cho nền kinh tế và rồi chính sự lãi thật hay giả ấy cũng bị sụp đổ trong tương lai.
Một hồi chuông hối thúc các cơ quan quản lý nhà nước cần phải ổn định và tái cấu trúc hệ thống ngân hàng tại Việt Nam là việc không thể để chọ lâu hơn nữa. Nếu chúng ta không thể thực hiện hạ lãi suất cho vay và giảm tọ· lệ lãi biên của hệ thông ngân hàng thì nền kinh tế không thể ổn định được chứ đừng mơ đến hai chữ phát triển.
MaiHuy tổng hợp & phân tích