Việt Nam có nhiều lợi thế về cảng biển. |
Cho đến năm 2008, Việt Nam vẫn được coi là một nền kinh tế mới nổi có sức bứt phá mạnh mẽ nhất nhì châu lục và được kỳ vọng là một "con hổ châu Ã" tiếp theo. Nhưng theo Mike Every, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra năm 2008 đã làm lộ ra một nền kinh tế kém ấn tượng hơn rất nhiều so với danh hiệu đó.
Mặc dù vậy, sau một chuyến nghiên cứu 10 ngày đến các nhà máy và cơ sở hạ tầng tại tỉnh Quảng đông và tỉnh Vũ Hán, Trung Quốc và các tỉnh ở phía bắc Việt Nam, dưọng như điều rõ ràng là Việt Nam vẫn là một sự lựa chọn tiềm năng rẻ hơn so với nền sản xuất chi phí rẻ của Trung Quốc.
Nhưng có lẽ so sánh Việt Nam với một tỉnh của Trung Quốc sẽ hợp lý hơn.
Theo cách so sánh này, về mặt dân số Việt Nam có số dân bằng một trong những tỉnh lớn nhất của Trung Quốc. Thế nhưng, GDP bình quân đầu người của Việt Nam thậm chí lại thấp hơn tỉnh nghèo nhất Trung Quốc, tỉnh Quý Châu (năm 2011 GDP bình quân đầu người của Việt Nam là 1.224 USD còn của tỉnh Quý Châu là 2.541 USD).
Với mức thu nhập đó, Việt Nam là nơi vừa giàu nguồn nhân lực lại vừa có nhân công thấp. Thực tế là mức lương của một công nhân Việt Nam làm cho nhà máy dệt - một ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động và hiện đang bị đẩy ra ngoài Trung Quốc - chưa bằng một nửa mức lương của công nhân dệt tại tỉnh Quảng đông.
Bên cạnh đó, những thành phố sâu trong lục địa Trung Quốc không còn lợi thế rẻ nữa. Ví dụ tại thành phố Hiếu Cảm, mức lương tương đối thấp hơn, nhưng các phụ cấp mà người công nhân ở đây đòi họi là tương đối lớn.
Và cũng nên nhớ rằng về mặt địa lý thì khoảng cách từ tỉnh Quảng Châu đến những tỉnh nằm sâu trong đại lục Trung Quốc là xa hơn so với khoảng cách từ tỉnh này đến các tỉnh phía bắc Việt Nam: ví dụ từ Quảng Châu đến Vũ Hán là 1.019 km trong khi đó từ Quảng Châu đến Hà Nội chỉ có 796 km.
Với tất cả những yếu tố trên, việc so sánh Việt Nam với một tỉnh có cùng kích thước của Trung Quốc chắc chắn không thể là sự so sánh hoàn hảo. Ví dụ như ngành dệt may và da giày của Trung Quốc trong năm 2010 đạt giá trị xuất khẩu là 164 tọ· đô la trong khi đó Việt Nam chỉ đạt được 14 tọ· đô la.
Nguyên nhân được cho là do các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam chưa đạt được gì nhiều do thiếu nguồn lực và phối hợp lọng lẻo.
Trên thực tế, Việt Nam là số ít các quốc gia có số cảng nước sâu nhiều đến mức khó tin là 200 cảng trong khi Việt Nam thực ra chỉ cần đến 3 cảng. Có thể phần lớn những cảng này mới dừng lại ở việc có tên chỉ vì lí do thiếu vốn đầu tư.
Tuy vậy, quá trình phân loại cơ sở hạ tầng của Việt Nam diễn ra khá chậm chạp. Tại Hưng Yên, tỉnh cách Hà Nội 60 km, đã có một tổ hợp các công ty dệt hoạt động khá hiệu quả mặc dù vẫn nhập nguyên liệu từ Trung Quốc.
Và cảnh đình Vũ tại Hải Phòng cách đó 40km là cảng hoạt động tốt với năng lực thông qua khoảng 30 triệu tấn hàng hóa và đây là cảng dễ dàng kết nối với các tuyến đường hàng hải đến Mỹ. Hiện cảng đình Vũ mới hoạt động ở mức 75% công suất vì thế có thể đáp ứng được nhu cầu bốc dỡ tăng lên nhiều hơn nữa.
Ngoài ra, cảng Lạch Huyện của Hải Phòng sẽ là cảng nước sâu lớn có năng lực thông qua khoảng 60 triệu tấn hàng và sẽ đi vào hoạt động vào năm 2016. Và mặc dù đường cao tốc 4 làn đường 5A nối Hà Nội và Hải Phòng hiện dễ bị ùn tắc, đường cao tốc 8 làn đường 5B đang được xây dựng.
Tóm lại, Việt Nam không phải là "Trung Quốc tiếp theo" nhưng miền Bắc Việt Nam là một ngách tiện lợi để các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động của Trung Quốc có thể chuyển dịch sang.
Lê Dung
Nguồn tin: infonet.vn