Chiếc bình đồng cổ sau hơn 70 năm khai quật

Thứ bảy - 24/12/2011 22:29 2.067 0

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa
Vào những năm 1936-1937, trong khi tình hình khảo cổ học ở đông Dương phát triển khá ỳ ạch, sau nhiều lần tranh luận, cuối cùng Viện Viễn đông Bác cổ Pháp (EFEO) ở Hà Nội cũng nhất trí để một nhà khảo cổ học Thụy Điển là Olop Janse tiến hành một cuộc điều tra khai quật khảo cổ học quy mô và bài bản ở đông Dương.

Vốn là một chuyên gia về Trung Hoa học, ngay khi vào Việt Nam, Janse đã đặc biệt chú ý đến các mộ xây bằng gạch kiểu Hán, bên trong chứa di vật đồng, gốm kiểu đông Sơn và Giao Chỉ ở quanh Hà Nội. Và rồi ông đã phát hiện được những hầm mộ quý tộc lớn ở vùng mà tương truyền là thủ phủ cũ của chính quyền cai trị nhà đông Hán, như Luy Lâu, Long Biên thuộc tỉnh Bắc Ninh.

Hầm mộ gạch do Olop Janse khai quật ở Nghi Vệ (Bắc Ninh)

Một số hầm mộ đó đã được Janse khai quật, trong đó đáng chú ý nhất là cụm hầm mộ gạch "khổng lồ" ở Nghi Vệ, Bắc Ninh. Theo một số bức hình để lại thì đây là một cụm liên hoàn gồm ba hầm mộ xây cùng một lúc, gắn liền với nhau. Phần chứa quan tài của mỗi hầm mộ đều được xây cuốn vòm như tổ tò vò, ở phía đầu mỗi hầm mộ có một sảnh vuông, ở đó phần chọm được quây cao hơn. đây là kiểu kiến trúc hầm mộ gạch quen thuộc của thời đông Hán muộn ở vùng Giao Châu (khoảng thế kọ· 2 sau Công nguyên). Bên trong hầm mộ chứa nhiều đồ đồng và đồ gốm có giá trị, trong đó có một chiếc bình bụng nở, miệng thu, có vành chân đế trổ lỗ hình chữ S đứng nối đuôi nhau, thân trang trí hàng ngàn gai sần hình tròn nhọ được đúc nổi, hai quai gắn ở phần cổ hình chữ U lộn ngược giống như quai của một số thạp đồng đông Sơn. Nắp bình được đúc như một chiếc đĩa có ba chân úp ngược. Bình đồng này khá lớn, cao 47,5 cm, rộng bụng 38 cm. Hiện trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Việt nam với ký hiệu số LSb17241. Điều đáng nói nhất ở chiếc bình này là hàng minh văn chữ Hán được khắc chạy xung quanh một nửa viền miệng chiếc bình.

Chiếc bình đồng ký hiệu LSb17241 khai quật trong mộ Nghi Vệ (Bắc Ninh)

Minh văn trên viền miệng bình đồng Nghi Vệ LSb17241

đã hơn 70 năm qua, dòng minh văn này vẫn chưa được đọc hoàn chỉnh. Ngay từ khi mới khai quật, Janse đã thử đọc hàng minh văn có 14 chữ này, nhưng ông cũng không thể giải quyết trọn vẹn. Cho đến tận gần đây nhất, khi Hội Á Châu New York phối hợp với Bảo tàng Mỹ thuật Houston (Mỹ) mượn chiếc bình này trưng bày tại Mỹ năm 2009-2010 đã nhọ một số chuyên gia minh văn đọc thì nhiều chữ vẫn chưa thể được làm rõ nghĩa. Theo bản dịch của Terese Bartholomew and He Li ở Bảo tàng Nghệ thuật Châu Á San Francisco (Mỹ) thì dòng chữ đó có nghĩa như sau : " Bình được đúc với những vì sao, chứa được một dan, tên gọi là "Vạn Tuế", năm Quý Mùi, thứ 16". Thực ra khi xem lại bản ảnh hiện vật gốc do chúng tôi chụp tại Bảo tàng Lịch sử thì có thể nhận ra bản dịch trên không được chính xác. đặc biệt là những chữ đầu và cuối. Cụ thể những dòng cuối, những người dịch đã suy luận hai chữ "đệ vị" (thứ tự, vị trí) thành "quý mùi" (năm theo can chi). Ba chữ đầu tiên có thể đọc là "Luy Lâu hồ", tức chiếc bình của Luy Lâu. Không rõ dựa vào đâu đã được hai tác giả trên đọc là " A Vessel cast with stars" - Bình đúc với những vì sao.

Theo tôi, toàn văn 14 chữ có thể đọc như sau : "Luy Lâu hồ dung nhất thạch danh viết vạn tuế đệ vị thập lục", nghĩa là : Bình của Luy Lâu, chứa được một thạch, tên gọi là "Vạn Tuế", là đồ vật thứ 16. Luy Lâu là tên huyện, cũng là nơi thủ phủ của Giao Châu đọi Hán, Tô định, Sĩ Nhiếp đều đã từng ở tại đây. Một thạch đọi đông Hán bằng 25 lít. Cách ghi minh văn này khá phổ biến ở Giao Chỉ và Lĩnh Nam trong thời Nam Việt. Kiểu dáng, hoa văn và nhất là cách trang trí phần tai quai cho thấy chiếc bình này tuy chôn trong mộ gạch thế kọ· 2 sau Công nguyên, nhưng được chế tạo từ trước đó vài ba trăm năm, khoảng thế kọ· 2 trước Công nguyên. Tuy nhiên địa danh Luy Lâu mới chỉ được nhắc đến từ khoảng trước sau Công nguyên, gắn với thứ sử Tô định và khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Vì vậy có hai khả năng xảy ra đối với chiếc bình quý giá này : Thứ nhất, có thể phong cách trang trí và đúc đồng đông Sơn tồn tại dai dẳng đến những thế kọ· trước sau Công nguyên, hoặc là thứ hai, bình đồng được đúc từ thế kọ· 2 trước Công nguyên nhưng minh văn được khắc vào sau Công nguyên.

Minh văn trên bình đồng gợi cho ta thấy mấy vấn đề :

a- địa danh Luy Lâu hiện vẫn được nhiều học giả cho là thành Luy Lâu ở gần chùa Dâu (Thuận Thành, Bắc Ninh), nay thuộc địa phận làng Lũng Khê.

b- Cách đặt tên gọi đẹp (mỹ tự) cho những đồ đồng quý, như trống "Phú", thạp "Quả" và nay là bình "Vạn Tuế".
c- Cách sử dụng âm nôm khi dùng chữ "vị" (mùi vị) thay cho chữ "vị" (vị trí) trong cặp đôi từ ‘đệ vị". Cách sử dụng này cũng đã thấy trên minh văn trống "Phú", thạp "Quả" của Triệu đà.

d- Chữ khắc trên bình này khá đẹp và rõ ràng, tuy nhiên chữ "lục" (sáu) vẫn giữ lối viết cổ. Minh văn trên bình này góp thêm tư liệu quý báu trong nghiên cứu chữ Hán sớm trong thời đông Sơn ở Việt nam.

Bài và ảnh : Lan Việt

Nguồn tin: Theo Tamnhin.net

 Tags: khảo cổ
yk
nh
kb
hd
cds
cl
cuc
ck
a9
a8
a7
a6
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập37
  • Hôm nay5,833
  • Tháng hiện tại56,229
  • Tổng lượt truy cập41,236,830
EMC
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây