Ngày 17 tháng 01 năm 2013, tại Văn phòng UBND tỉnh dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Diễn, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã tổ chức Hội nghị tổng kết tình hình kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng năm 2012; nhiệm vụ trọng tâm năm 2013 của tỉnh Đăk Nông với sự tham gia của các đồng chí Thành viên UBND tỉnh, các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội, Thủ trưởng các sở, ngành, lãnh đạo UBND các huyện, thị xã Gia Nghĩa.
Uỷ ban nhân dân tỉnh thống nhất nhận định: năm 2012, hoạt động chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh đã được triển khai toàn diện, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực, trong đó tập trung thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Công tác xây dựng chương trình công tác chỉ đạo, điều hành năm 2012 gắn với việc thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP, ngày 03/01/2012 của Chính phủ, Nghị quyết số 08-NQ/TU, ngày 20/12/2011 của Tỉnh ủy và Nghị quyết số 28/2011/NQ-HĐND, ngày 09/12/2011 của HĐND tỉnh, cùng với quyết tâm cao, nỗ lực chỉ đạo điều hành tập trung, quyết liệt và tinh thần trách nhiệm trước Đảng bộ và nhân dân, năm 2012 đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.
I. Tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2012
1. Về thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội:
- Thực hiện có hiệu quả những giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế, đảm bảo cho các mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) theo giá cố định đạt 12,35%, GDP bình quân đầu người (giá hiện hành) đạt 27,23 triệu đồng (kế hoạch 21,31 triệu đồng). Thu ngân sách Nhà nước đạt 1.389,5 tỷ đồng, tăng 13% so với dự toán địa phương giao, tăng 33% so với dự toán Trung ương giao. Lạm phát được kiềm chế, cả năm tăng 9,47%. Tổng chi ngân sách ước 5.023 tỷ đồng, tăng 39,7% so với dự toán (dự toán 3.594 tỷ đồng).
- Khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư, phát triển kinh tế. Tập trung đầu tư nông nghiệp, nông thôn, đến nay đã có 61/61 xã đã phê duyệt quy hoạch nông thôn mới; đang triển khai lập quy hoạch xây dựng Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại xã Đăk Nia, thị xã Gia Nghĩa; đảm bảo nhu cầu nước tưới cho 50% (KH 52%) diện tích cây trồng trên toàn tỉnh. Xuất khẩu đạt 515 triệu USD (KH: 430 triệu USD) tăng 19,77% so với kế hoạch đề ra, nhập khẩu 27 triệu USD (KH: 22 triệu USD) tăng 22,73% so với kế hoạch. Đến nay đã nhựa hóa 90% tỉnh lộ, 68% huyện lộ, 62% số buôn, bon có 1-2km đường nhựa. Thực hiện các giải pháp khuyến khích xã hội hóa để giảm đầu tư công, xây dựng kết cấu hạ tầng bằng các hình thức thích hợp. Năm 2012, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 9.736 tỷ đồng, tăng 19,8% so với năm trước.
- Thực hiện tốt các vấn đề về an sinh xã hội; chất lượng giáo dục đào tạo được nâng lên; chăm sóc sức khoẻ được quan tâm; đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân có nhiều chuyển biến. Trong năm đã hỗ trợ xây dựng 1.062 căn nhà cho hộ nghèo, hộ chính sách; giảm 5% tỷ lệ hộ nghèo so với tổng số hộ nghèo toàn tỉnh. Đội ngũ y bác sĩ được đào tạo và tăng cường (đạt 5,2 bác sỹ trên vạn dân, kế hoạch 5,2).
- Phát triển khoa học công nghệ; tăng cường công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và phòng chống thiên tai.
2. Thực hiện Quy chế làm việc có nhiều cải tiến, phương thức hoạt động tiếp tục được đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Năm 2012, Chủ tịch, các Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Văn Phòng UBND tỉnh đã tiếp nhận 12.315 văn bản gửi đến từ các cơ quan Trung ương, sở, ngành, các huyện, thị xã, các tỉnh, doanh nghiệp và công dân. Qua đó đã ban hành 9.862 văn bản các loại, trong đó: 23 văn bản Quy phạm pháp luật; 1.718 quyết định và chỉ thị cá biệt; 8.121 văn bản khác, đã góp phần cụ thể hoá các chủ trương, chính sách của Chính phủ, Tỉnh uỷ và HĐND tỉnh trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Trên cơ sở triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012, UBND tỉnh đã xây dựng chương trình công tác với 85 đề án, dự án, chương trình và phân công các sở, ngành chủ trì và phối hợp với các địa phương xây dựng, triển khai và tổ chức thực hiện. Đến nay đã thực hiện cơ bản xong, tuy nhiên, khâu phối hợp thẩm định dự án, một số trường hợp không đồng bộ, còn kéo dài, nhiều trường hợp lấy ý kiến phản hồi chậm cho cơ quan chủ trì; nhiều dự án ít được quan tâm nên tồn đọng kéo dài, nhiều đề án phải hoãn do chưa đủ cơ sở pháp lý.
Chủ tịch, các Phó Chủ tịch UBND tỉnh đã tổ chức hơn 600 cuộc họp, trong đó có gần 100 chuyến trực tiếp làm việc với các sở ngành và địa phương để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc. Tham dự một số cuộc họp trực tuyến với Chính phủ, các Bộ về: tình hình kinh tế-xã hội quý, 6 tháng năm 2012, đào tạo nguồn nhân lực, phòng chống dịch bệnh,... Công tác chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh luôn bám sát Nghị quyết của Tỉnh uỷ, HĐND tỉnh, thực hiện đúng phạm vi thẩm quyền, trách nhiệm được phân công, đúng trình tự, thủ tục theo các quy định của pháp luật, chương trình, kế hoạch công tác và Quy chế làm việc của UBND tỉnh, bảo đảm công khai, minh bạch. Tăng cường trách nhiệm của tập thể gắn với đề cao trách nhiệm cá nhân của Chủ tịch, Phó Chủ tịch và của mỗi thành viên UBND tỉnh.
Chế độ thông tin báo cáo ở các ngành và địa phương được nâng lên, đều hơn so với trước. Các cuộc họp của UBND tỉnh tổ chức có đổi mới, nhất là đã duy trì họp thành viên UBND tỉnh định kỳ hàng tháng, thành phần dự họp được rút gọn, tiết kiệm thời gian cho công tác chỉ đạo đối với các huyện, thị, nội dung được chuẩn bị chu đáo và gửi tài liệu trước để đại biểu nghiên cứu.
Duy trì việc phát hành công báo định kỳ; tổ chức 01 buổi Họp báo để thông báo tình hình kinh tế xã hội 6 tháng đầu năm cho các cơ quan báo chí trung ương và địa phương, phát hành 8 số bản tin cải cách hành chính, vận hành liên tục Cổng thông tin điện tử của tỉnh, đáp ứng nhu cầu tra cứu, sử dụng thông tin của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài tỉnh, góp phần tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách.
Chỉ đạo các sở, ban, ngành tỉnh chuẩn bị các nội dung phục vụ các kỳ họp của HĐND tỉnh. Tạo điều kiện để các đoàn giám sát của Quốc hội, HĐND tỉnh cũng như UBMTTQVN tỉnh, các đoàn thể và nhân dân tham gia quản lý, giám sát các hoạt động của chính quyền và duy trì họp giao ban định kỳ; tại các cuộc họp quý, 6 tháng, năm, UBND tỉnh mời Đoàn đại biểu Quốc hội của tỉnh, Thường trực HĐND tỉnh, các Ban của HĐND tỉnh, Ủy ban MTTQ và các đoàn thể tham dự. Phối hợp tốt trong giải quyết các kiến nghị của cử tri.
3. Đánh giá tổng quát về công tác chỉ đạo, điều hành và thực hiện Quy chế làm việc của UBND tỉnh.
a) Về ưu điểm tiến bộ:
Thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012 trong bối cảnh nhiều thuận lợi và thách thức đan xen, nhưng nhờ cụ thể và triển khai thực hiện kịp thời các Nghị quyết của Chính phủ, của Tỉnh uỷ và HĐND tỉnh, sự nỗ lực phấn đấu của các cấp, các ngành và các doanh nghiệp, nên đã hoàn thành cơ bản các chỉ tiêu chủ yếu đề ra trong kế hoạch năm 2012, hầu hết các chỉ tiêu quan trọng đều đạt và vượt kế hoạch đề ra. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ. Nông nghiệp, nông dân và nông thôn được đầu tư có chiều sâu qua chương trình xây dựng nông thôn mới của Chính phủ và nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của Tỉnh uỷ đề ra, góp phần ổn định đời sống nhân dân. Xây dựng cơ bản có nhiều đổi mới trong quản lý, điều hành, hiệu quả đầu tư được nâng lên nhờ tập trung vốn cho các công trình trọng điểm. Thu hút thêm nhiều nguồn vốn vào đầu tư sản xuất, phát triển kết cấu hạ tầng, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Giáo dục và đào tạo, y tế chuyển biến tích cực nâng cao chất lượng dạy và học, khám và điều trị. Quốc phòng an ninh được tăng cường, giữ vững ổn định, trật tự xã hội, kỷ luật, kỷ cương hành chính tiếp tục được chấn chỉnh, cải cách hành chính có nhiều tiến bộ. Chỉ còn 02 chỉ tiêu gần đạt: (1) tỷ lệ nhựa hoá đường huyện đạt 68% (KH 70%), (2) tỷ lệ diện tích cây trồng đảm bảo nguồn nước tưới là 50% (KH 52%), nguyên do thực hiện chính sách thắt chặt nguồn vốn đầu tư.
Cùng với sự chỉ đạo, điều hành thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội thường xuyên, UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành, các cấp, phát huy sức mạnh tổng hợp cả hệ thống chính trị, tập trung xử lý, giải quyết nhiều vấn đề đột xuất, phát sinh như vụ buôn bán gỗ trái phép tại huyện Đăk Mil. Tổ chức thành công các sự kiện, như: Lễ kỷ niệm 100 năm khởi nghĩa Nơ Trang Lơng, với gần chục sự kiện tầm quốc gia như các giải Tennis, bóng chuyền, Hội chợ..., tổ chức sơ kết chương trình hợp tác phát triển kinh tế - xã hội với tỉnh Lâm Đồng và tỉnh Mondulkiri/Campuchia.
Quan tâm công tác cải cách hành chính, triển khai các biện pháp cụ thể để nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh, đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tăng cường công tác đối ngoại.
b) Hạn chế, yếu kém:
Với những sai sót, khuyết điểm đã được chỉ ra sau đợt kiểm điểm Nghị quyết Trung ương 4, khoá XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, như: việc yếu kém trong giao đất, giao rừng để mất đất, mất rừng, nhiều dự án nông lâm nghiệp hoạt động không hiệu quả, chưa mang lại lợi ích cho người dân và nhà nước; việc đền bù giải toả, bố trí tái định cư cho dân còn nhiều sai sót nên phát sinh khiếu kiện gay gắt, phức tạp; việc đầu tư các dự án xây dựng cơ bản hiệu quả thấp, không đồng bộ hạ tầng, chất lượng kém (Trường Chính trị, Bệnh viện Đa khoa tỉnh); các dự án trọng điểm chưa được quan tâm đầu tư nên kéo dài thời gian, tăng vốn đầu tư (Cụm công trình thuỷ lợi Gia Nghĩa, Công viên Hồ Thiên Nga)... Mặc dù trong chỉ đạo, điều hành UBND tỉnh đã có nhiều biện pháp quyết liệt (như giải toả 500 ha đất rừng bị lấn chiếm tại Đăk Ngo, Tuy Đức) và kiên quyết xử lý nhiều tập thể và cá nhân sai phạm, khuyết điểm, nhưng những tồn đọng, khuyết điểm này cần có sự quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị và thời gian để khắc phục.
Công tác bảo vệ môi trường, quản lý tài nguyên khoáng sản còn nhiều yếu kém, bất cập gây nhiều bức xúc trong dư luận, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước còn thấp, ý thức bảo vệ môi trường trong xã hội chưa cao.
Kỷ cương, kỷ luật trong việc chấp hành sự chỉ đạo, điều hành của một số cơ quan chưa nghiêm. Rất nhiều văn bản của UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh không được triển khai đúng tiến độ yêu cầu. Điển hình việc triển khai thực hiện các chương trình, đề án của UBND tỉnh giao chất lượng thấp, chủ yếu do sở, ngành chưa quan tâm chỉ đạo thực hiện, mặt khác khâu phối hợp thực hiện giữa các sở ngành chưa chặt chẽ. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) tuy có cải thiện nhưng vẫn còn thấp (59/63 tỉnh, thành), chỉ số hiệu quả quản trị công và hành chính công (PAPI) còn xếp thứ hạng thấp (57/63).
Công tác dự báo còn mang tính ngắn hạn, phân tán theo lĩnh vực, thiếu tầm chiến lược, chưa đảm bảo tính tổng thể. Việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch còn thiếu định hướng, nhiều quy hoạch còn đơn giản, chất lượng thấp, thiếu sự liên kết và hỗ trợ phát triển. Sự phối hợp trong công tác này thiếu chặt chẽ dẫn đến tình trạng chồng chéo, lãng phí nhưng tính khả thi thấp, tác dụng hạn chế. Không ít quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch đô thị thiếu tính khả thi, dẫn đến tình trạng quy hoạch treo.
Năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng kịp yêu cầu. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có số lượng lớn nhưng vẫn còn tình trạng vừa thừa, vừa thiếu làm cho hiệu quả công việc còn thấp. Chất lượng công vụ còn yếu kém, nhiều công việc xử lý quá chậm, phải qua nhiều khâu, nhiều tầng nấc. Một bộ phận cán bộ, công chức sa sút phẩm chất, tiêu cực, tham nhũng, mất đoàn kết, đặt lợi ích riêng lên trên lợi ích chung, làm ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Trong khi đó, công tác bố trí, sử dụng, đánh giá, tiền lương, chế độ đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật còn nhiều bất cập. Ở nhiều nơi, tuyển dụng còn tiêu cực; việc sử dụng công chức, viên chức chưa hiệu quả, lãng phí nguồn lực; thực hiện tinh giản biên chế, điều chỉnh lại cơ cấu công chức chưa phù hợp. Việc bổ nhiệm cán bộ ở một số nơi còn thiếu chặt chẽ, chưa lựa chọn được người thực sự đủ năng lực, trình độ phù hợp với vị trí công tác.
Công tác phòng chống tham nhũng, giải quyết khiếu nại tố cáo tuy được quan tâm thực hiện nhưng vẫn còn xảy ra nhiều vụ tiêu cực, tham nhũng, một số vụ khiếu kiện còn kéo dài, có lúc, có nơi diễn biến phức tạp; công tác thanh tra, kiểm tra công vụ chậm được triển khai, hiệu quả thực hiện không cao và xử lý không dứt điểm nên gây mất đoàn kết nội bộ, giảm hiệu quả hoạt động của đơn vị.
Chưa duy trì tốt việc tổ chức họp báo định kỳ với báo chí, nhất là trong những thời điểm mang tính chất nhạy cảm, các vấn đề được báo chí nêu, dư luận xã hội quan tâm, các chủ trương chính sách mới ban hành nhằm thông tin kịp thời, đầy đủ, chính xác để nhân dân hiểu, biết, đồng thời tạo sự đồng thuận cao của xã hội trong việc triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
II. Kế hoạch năm 2013
1. Mục tiêu tổng quát
Trong năm 2013, bám sát Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ X, nhiệm kỳ 2010 - 2015 Đảng bộ tỉnh Đắk Nông và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, giai đoạn 2011 - 2015, trên cơ sở kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2012, Hội đồng nhân dân tỉnh đã thông qua kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 tại Nghị quyết số 22/2012/NQ-HĐND, ngày 20/12/2012, xác định năm 2013 là năm hành động kỷ niệm 10 thành lập tỉnh, với mục tiêu tổng quát như sau:
Tăng trưởng kinh tế cao hơn, lạm phát thấp hơn năm 2012. Đẩy mạnh thực hiện 02 nhiệm vụ tập trung, 03 đột phá, gắn với nhiệm vụ tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Hoàn thành cơ bản các công trình trọng điểm chào mừng kỷ niệm 10 năm thành lập tỉnh. Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Phát triển đồng bộ sự nghiệp giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa - xã hội, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo. Giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tạo nền tảng phát triển vững chắc hơn cho những năm tiếp theo.
a) Các chỉ tiêu kinh tế
- Tăng trưởng kinh tế đạt 12,5%; trong đó: Công nghiệp - xây dựng tăng 15,97%; Dịch vụ tăng 16,5%; Nông - lâm nghiệp tăng 8,96%. Thu nhập bình quân đầu người (theo giá hiện hành) đạt trên 30,6 triệu đồng.
- Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1,02%; mức giảm tỷ suất sinh 1%o; Tỷ lệ xã đạt chuẩn quốc gia về y tế 15%; Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng 22,80%; Số giường bệnh/vạn dân 17,58 giường; Số bác sỹ trên vạn dân 5,7 bác sỹ; Tỷ lệ tiêm chủng mở rộng cho trẻ em đạt trên 90%.
Tiếp tục giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, không để xảy ra biểu tình, bạo loạn và vượt biên trái phép. Tiếp tục kiện toàn củng cố cả về chính trị tư tưởng cho tổ chức Lực lượng vũ trang. Tổ chức diễn tập theo cơ chế 02/BCT.
3. Để thực hiện các nhiệm vụ nêu trên, UBND tỉnh đề ra 12 giải pháp cụ thể như sau:
3.1. Khẩn trương xây dựng các biện pháp, nhiệm vụ cụ thể để trong năm 2013, phải cơ bản khắc phục, sửa chữa những tồn tại, hạn chế ở các cấp, các ngành đã được nêu rõ trong đợt kiểm điểm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4, khoá XI. Trước mắt, phải khắc phục cơ bản tình trạng giao đất, giao rừng nhưng không gắn với kiểm tra, giám sát làm mất đất, mất rừng. Đình chỉ hoặc thu hồi đất của những doanh nghiệp nông lâm nghiệp kinh doanh sai mục đích, hiệu quả thấp, làm thất thoát tài nguyên rừng. Hạn chế tình trạng phá rừng, tranh chấp đất rừng, năm 2013 phấn đấu giảm 50% số vụ và số diện tích rừng bị phá so với năm 2012. Giải quyết dứt điểm các vụ khiếu kiện kéo dài, đông người, tạo điều kiện cho người dân ổn định đời sống và sản xuất.
3.2. Tập trung phát triển kinh tế với tốc độ nhanh hơn, lạm phát thấp hơn năm 2012. Thực hiện tốt thu chi theo kế hoạch, chống thất thu gắn với nuôi dưỡng nguồn thu, triệt để tiết kiệm chi. Đổi mới và tăng cường công tác thu hút vốn đầu tư của các tổ chức quốc tế và phi Chính phủ để xây dựng hạ tầng kinh tế xã hội.
3.3. Việc ổn định đời sống nhân dân và phát triển kinh tế vùng nông thôn là nhiệm vụ chiến lược, trong thời gian đến cần phải tập trung triển khai xây dựng nông thôn mới, trong thực hiện phải lồng ghép các nguồn vốn và đầu tư có trọng điểm để trong năm hoàn thành thêm từ 3 chỉ tiêu trở lên đối với các xã điểm, các xã còn lại hoàn thành thêm từ 2 chỉ tiêu trở lên. Song song với việc thực hiện nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao để thay đổi căn bản đời sống vật chất và tinh thần nhân dân. Triển khai mạnh các chính sách bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Nâng cao hiệu quả thực hiện các chương trình giảm nghèo; thực hiện nhiều biện pháp, chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất để thoát nghèo, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân; tạo cơ chế, chính sách cho các hộ cận nghèo vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh nhằm đảm bảo thoát nghèo bền vững. Sớm hoàn thành công tác quy hoạch Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, song song với công tác kêu gọi đầu tư, trong năm phải thu hút được 10 nhà đầu tư đến ký kết hợp tác đầu tư vào Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
3.4. Đôn đốc và tạo cơ hội cho phát triển công nghiệp, đưa công nghiệp thành trung tâm của phát triển kinh tế, gắn với tiết kiệm tài nguyên và hiệu quả kinh tế. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư vào phát triển công nghiệp phụ trợ, công nghiệp khai thác bô xít, luyện nhôm,
3.5. Đẩy mạnh thu hút nguồn vốn từ xã hội hóa và tạo điều kiện cho các tổ chức và cá nhân tham gia đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng bằng nhiều hình thức linh hoạt, phù hợp với quy định của pháp luật. Tập trung tháo gỡ khó khăn và đẩy nhanh tiến độ thi công hoàn thành các dự án trọng điểm, có tính đột phá để chào mừng kỷ niệm 10 năm thành lập tỉnh, như: Nhà máy Alumin Nhân Cơ, Cụm công trình thủy lợi Gia Nghĩa, trục đường Bắc Nam giai đoạn II, Công viên Hồ Thiên Nga, BOT Quốc lộ 14, các đường giao thông liên vùng, tượng đài Nơ Trang Lơng và các anh hùng dân tộc Tây Nguyên, trường PTTH chuyên của tỉnh,…
3.6. Tăng đầu tư nhà nước cho đào tạo để phát triển nhanh nguồn nhân lực có chất lượng, ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong quản lý nhà nước và công nhân kỹ thuật. Hạn chế tình trạng thiếu lao động cục bộ ở một số ngành, nghề, lĩnh vực.
3.7. Xây dựng kế hoạch triển khai quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh, bổ sung, thực hiện các quy hoạch ngành và quy hoạch sản phẩm theo hướng phát huy các tiềm năng lợi thế của tỉnh. Thực hiện các bước nâng cấp đô thị Gia Nghĩa theo quy hoạch chung sau khi đã được HĐND tỉnh thông qua.
3.8. Tăng cường đầu tư cho giáo dục tại các vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc, củng cố và phát triển hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú, trường dạy nghề. Đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý.
3.9. Chú trọng công tác y tế dự phòng, nâng cao khả năng phòng chống các loại dịch bệnh; triển khai chính sách xã hội hóa phù hợp để phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Áp dụng biện pháp hữu hiệu thực hiện chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình, giảm tỷ lệ sinh. Triển khai các biện pháp chống suy dinh dưỡng cho trẻ em, tập trung vào các vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xã, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
3.10. Tiếp tục chỉ đạo, rà soát để hoàn chỉnh thủ tục hành chính, bảo đảm minh bạch, công khai, rõ ràng, dễ hiểu, giảm thủ tục, gọn đầu mối nhưng tránh sơ hở để lợi dụng; siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, xác định rõ ý thức, trách nhiệm phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức trong việc thực hiện các thủ tục hành chính và nhiệm vụ được giao.
3.11. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tăng cường thanh tra công vụ, kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm tham nhũng, các hành vi vi phạm pháp luật. Đề cao trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Coi trọng việc tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mỗi tổ chức, cá nhân để tự giác thực hiện pháp luật. Có biện pháp, cơ chế, chính sách hữu hiệu và thể hiện rõ trong thực tế việc bảo vệ, khuyến khích, khen thưởng người mạnh dạn đấu tranh chống lãng phí, tham nhũng, tố giác tội phạm. |
Nguồn tin: daknong.gov.vn