Rượu cần mang lại niềm vui, sự tốt lành, yên vui nên là thức uống cho cả gia đình, những người già, trẻ đều được uống, thậm chí những đứa trẻ sơ sinh cũng được cha, mẹ cho nhắm môi khi vừa lọt lòng... Hơn nữa, rượu cần chính là sợi dây gắn kết từng cá nhân với cộng đồng, giúp mọi người xích lại gần nhau hơn, đoàn kết giúp nhau vượt qua khó khăn, thử thách. Vì thế, trong quá trình lao động sản xuất cũng như khi sử dụng, làm rượu cần, đồng bào M’nông luôn tuân thủ nghiêm ngặt những điều kiêng kọµ như không làm men rượu vào độ xoài trổ bông, lúa làm đồng; phụ nữ có thai hay đang trong giai đoạn kiêng cử thì không được đến gần, không gây vỡ ché, không làm gãy cần… Làm rượu cần thì bản thân người làm phải "sạch sẽ" thì rượu mới ngon và không có lỗi với thần linh. Rượu cần được làm bằng chính những nguyên liệu sẵn có như sắn, ngô, gạo nếp, gạo tẻ, bo bo... nhưng ngon nhất và được ưa chuộng nhất là loại nếp than hoặc hạt kê được trồng trên đất đọ bazan. Trước kia, nguyên liệu để làm rượu cần là sự hòa trộn của các loại ngũ cốc hoặc xen cùng những loại củ thì nay chủ yếu làm bằng cơm nếp, chỉ có chất men là vẫn còn lưu giữ. Khi uống, người ta đổ nước suối (hoặc nước đun sôi để nguội) vào ché, rồi cắm cần trúc vào để người uống hút lên. Men rượu cần nhẹ, ngọt dịu, nhưng cũng tạo nên cảm giác say la đà, rất dễ kích thích tâm trạng con người vui vẻ, cởi mở, hòa đồng với nhau. Hương vị nồng nàn của men lá rừng khiến người uống có cảm giác lâng lâng, ngây ngất, dẫu say, nhưng vẫn muốn được uống thêm, vui mãi. Bởi thế, khi vào các gia đình người M’nông, chúng ta đều thấy những ché rượu để trong góc nhà, như minh chứng một điều rằng, trong hoàn cảnh nào thì ché rượu cần luôn hiện hữu trong cuộc sống hằng ngày của đồng bào.
|
Uống rượu cần trong lễ cưới của đồng bào dân tộc M’nông ở xã đắk Nia (Gia Nghĩa). Ảnh: t.b |
Chị Thị Nghel ở bon Bu Nrung, xã đắk Búk So (Tuy đức) là người thưọng xuyên ủ những ché rượu cần ngon, mang đặc trưng của đồng bào M’nông cho biết: "Rượu cần là nét văn hóa truyền thống của đồng bào M’nông nên tôi luôn lưu giữ cách làm rượu cần theo đúng quy cũ mà ông bà để lại". Theo chị, để làm ra được một ché rượu cần ngon bao gồm nhiều công đoạn. độ ngon của rượu cần phụ thuộc vào khâu đầu tiên là men rượu. để có được men rượu ngon, thì chị phải lên rừng tìm lá, rễ cây để ủ men. Những thứ này cùng với củ gừng, riềng xắt nhọ, phơi khô, giã mịn, trộn với bột gạo và vọ trấu, đánh thành bánh, phơi khô, cầm trong tay cảm giác nhẹ, xốp là tốt. Gạo nếp, mì, kê… được nấu chín, làm tơi ra để nguội. Men rượu giã nhọ, trộn đều với nếp, qua một đêm, mở ra thấy có mùi thơm ngào ngạt thì cho vào ché, lấy lá chuối khô đậy lại rồi mang đi ủ. Khoảng một tháng sau là rượu chín, nhưng để càng lâu thì càng thơm ngon, nước rượu càng ngọt, nồng chứ không bị chua hay đắng. Còn ông Điểu N’đơm ở bon Bu Boong, xã đắk Búk So cũng nói: "đối với người M’nông, ché rượu cần rất quý, thể hiện cả tinh thần của gia đình nên khi uống thì tất cả những người uống, kể cả khách đều phải tuân theo các quy định, tập tục. Thưọng là già làng, khách quý uống trước và sau đó là thứ tự lớn, nhọ, gái, trai… Rượu cần không uống bằng ly, bằng chén mà bằng những cần trúc nhọ, cong vút được cắm vào ché đã chêm nước. Mỗi khi gia đình có cưới họi, chúng tôi đều phải tự tay làm những ché rượu cần ngon để thết đãi dân làng và cho con cái làm của hồi môn".
Có thể nói, rượu cần là một trong những nét đặc trưng văn hóa ẩm thực của đồng bào M’nông nói riêng và đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên nói chung. Vì thế, mỗi khi tiếng cồng chiêng vang lên hay trong ánh lửa bập bùng thì rượu cần lại tọa hương, chia sẻ vui buồn với đồng bào.